Chuyển đổi số ngành Y tế Chuyển đổi số ngành Y tế
Chế độ ăn cho mẹ khi mang thai và cho con bú

Chế độ ăn uống của người mẹ có vai trò quan trọng quyết định đối với sự phát triển của thai nhi. Nếu người mẹ được ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ lên cân tốt. Trong suốt thời kỳ có thai, người mẹ cần tăng được từ 10kg đến 12kg (trong đó, 3 tháng đầu tăng 1kg, 3 tháng giữa tăng 4-5kg, 3 tháng cuối tăng 5-6 kg). Tăng cân tốt, người mẹ sẽ tích luỹ mỡ là nguồn dự trữ để tạo sữa sau khi sinh. Những trường hợp người mẹ bị thiếu ăn hoặc ăn uống kiêng khem không hợp lý chính là nguyên nhân của suy dinh dưỡng trong bào thai, trẻ đẻ ra thường có cân nặng dưới 2500g.

Cán bộ y tế hướng dẫn các bà mẹ thực hành dinh dưỡng.

NHU CẦU DINH DƯỠNG:

Khi có thai, nuôi con bú, nhu cầu về năng lượng và các chất dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn ở mức bình thường. Nhu cầu năng lượng của bà mẹ có thai 6 tháng cuối là 2550 Kcal/ngày, như vậy năng lượng tăng thêm hơn người bình thường mỗi ngày là 350 Kcal. Để đạt được mức tăng này, người mẹ cần ăn thêm 1 đến 2 chén cơm. Đối với bà mẹ nuôi con bú, năng lượng cung cấp tỷ lệ với lượng sữa sản xuất, nhưng nói chung, ở bà mẹ nuôi con 6 tháng đầu, năng lượng cần đạt được 2750 Kcal/ngày, như vậy năng lượng tăng thêm mỗi ngày là 550 Kcal (tương đương với 3 chén cơm mỗi ngày).

BỔ SUNG CHẤT ĐẠM VÀ CHẤT BÉO GIÚP VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CƠ THỂ CHO TRẺ:

Khi mang thai nhu cầu các chất dinh dưỡng ở người mẹ tăng lên giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Ngoài cơm (và lương thực khác) ăn đủ no, bữa ăn cho bà mẹ có thai cần có thức ăn để bổ sung chất đạm và chất béo. Trước hết cần chú ý đến nguồn chất đạm từ các thức ăn nguồn gốc thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng lạc. Đây là những thức ăn giá rẻ hơn thịt nhưng có lượng đạm cao, lại có chất béo giúp tăng năng lượng bữa ăn và giúp hấp thu tốt các vitamin tan trong dầu (vitamin A,D,E). Chất đạm động vật nên ưu tiên các loại thủy hải sản như tôm, cua, cá, ốc... và nên có thêm thịt, trứng, sữa. Nhu cầu chất đạm cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai 3 tháng cuối: khoảng 70g/ngày, còn đối với bà mẹ cho con bú cần cao hơn (khoảng 80g/ngày).

BỔ SUNG VITAMIN, CHẤT KHOÁNG VÀ CÁC YẾU TỐ VI LƯỢNG:

Trong khi có thai cũng như nuôi con bú, với khẩu phần ăn cân đối sẽ đảm bảo cung cấp vitamin, các chất khoáng và các yếu tố vi lượng. Trong thời kỳ có thai, người mẹ nên ăn các loại thức ăn, thực phẩm có nhiều vitamin C như rau, quả; các loại thức ăn có nhiều can xi, phốt-pho (cá, cua, tôm, sữa... ) để giúp cho sự tạo xương của thai nhi; các thức ăn có nhiều sắt như thịt, trứng, các loại đậu đỗ.. để đề phòng thiếu máu.

Khi cho con bú, đề phòng bệnh khô mắt do thiếu vitamin A, người mẹ nên ăn các thức ăn có nhiều protein và vitamin như trứng, sữa, cá, thịt, đậu đỗ và các loại rau, quả có nhiều caroten (tiền vitamin A) như rau muống, rau ngót, rau dền, đu đủ, gấc, xoài...Ngoài ra, người mẹ trong vòng một tháng đầu sau khi sinh cần uống bổ sung một liều vitamin A 200.000 đơn vị để đủ vitamin A trong sữa cho con bú 6 tháng đầu.

Chế độ ăn: Để đảm bảo đủ năng lượng và dinh dưỡng hợp lý, trong chế độ ăn, người mẹ phải ăn nhiều hơn bình thường, không nên kiêng khem, nhưng cũng cần chú ý: Không nên dùng các loại kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc...Giảm ăn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm.

Trong khi có thai và cho con bú, trước hết, bữa ăn cần cung cấp đủ năng lượng, nguồn năng lượng trong bữa ăn ở nước ta chủ yếu dựa vào lương thực như gạo, ngô, mỳ... Gạo nên chọn loại gạo tốt, không xay xát quá trắng vì sẽ mất nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là vitamin B1 chống bệnh tê phù. Trong bữa ăn cần cung cấp đủ chất đạm (protein), vì chất đạm cần cho thai lớn, mẹ đủ sữa. Các loại thức ăn động vật như thịt, cá, trứng sữa có nhiều chất đạm quí. Nhiều loại thức ăn thực vật cũng giàu chất đạm, đó là các loại họ đậu (đậu nành, đậu xanh, đậu đen, đậu phộng, mè…). Trong 3 tháng cuối, mỗi ngày nên ăn thêm 1 quả trứng. Bên cạnh đó, bữa ăn của phụ nữ có thai và cho con bú không thể thiếu rau, củ, quả là thức ăn có nhiều vitamin và chất khoáng. Các loại thức ăn nói trên phần lớn có thể dựa vào vườn rau, ao cá và chuồng trại chăn nuôi ở gia đình (VAC).

PHÒNG CHỐNG THIẾU MÁU DINH DƯỠNG KHI CÓ THAI:

Thiếu máu dinh dưỡng hay gặp ở phụ nữ có thai, đặc biệt là ở những người sinh nhiều, sinh dày và ăn uống thiếu thốn. Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ cả mẹ lẫn con: Đối với mẹ, người mẹ thiếu máu thường mệt mỏi, chóng mặt, khó thở khi gắng sức, khi sinh có nhiều rủi ro. Tỷ lệ tử vong khi sinh ở những người mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở bà mẹ bình thường. Do đó người ta đã coi thiếu máu là một yếu tố nguy cơ trong sản khoa. Đối với con, thiếu máu thường gây tình trạng sinh non và tử vong sơ sinh cao. Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh thường là do mẹ bị thiếu sắt nên lượng sắt dự trữ của cơ thể trẻ thấp. Ăn uống hợp lý là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất, các thức ăn có nhiều chất sắt là các loại đậu đỗ, các loại rau xanh (rau ngót, rau dền, rau khoai, rau bí...), các loại phủ tạng như tim, gan, thận... Bên cạnh đó, cần bổ sung viên sắt, ngay từ khi bắt đầu có thai, tất cả các bà mẹ nên uống viên sắt và uống liên tục trong suốt thời kỳ có thai đến một tháng sau khi sinh. Để tăng quá trình chuyển hoá và hấp thu sắt, cần tăng cường vitamin C, do đó cần ăn đủ rau xanh và quả chín.

BS NGUYỄN VĂN LÊN